Mối quan hệ giữa uy tín lãnh đạo, mức độ thỏa mãn trong công việc và gắn kết đối với tổ chức của nhân viên
Nghiên cứu xác định mối quan hệ giữa ba khái niệm: uy tín lãnh đạo, gắn kết đối với tổ chức và mức độ thỏa mãn với công việc của CBNV và đưa ra báo động về mức độ gắn kết đối với tổ chức chưa cao của nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Người lãnh đạo giữ vai trò then chốt đến kết quả hoạt động của tổ chức. Đề tài về ảnh hưởng của lãnh đạo đến các hành vi kết quả của nhân viên đã thu hút sự quan tâm rộng rãi của cả nhà nghiên cứu lẫn những người làm thực tiễn. Thông qua 1 cuộc khảo sát bằng kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp với 281 CBNV đnag làm việc toàn thời gian trong các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn Tp.HCM, nghiên cứu được thực hiện nhằm đo lường ảnh hưởng của uy tín lãnh đạo đến mức độ thỏa mãn trong công việc và gắn kết đối với tổ chức của CBNV.
Uy tín là một khái niệm rộng, mặc dù uy tín được sử dụng rất nhiều trong các nghiên cứu về hành vi tổ chức, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu không đưa ra được định nghĩa rõ ràng về uy tín. Uy tín chỉ được ngầm hiểu thông qua bối cảnh, phạm vi trong đó khái niệm này được sử dụng. Hall etal, (2004) cho rằng "Uy tín lãnh đạo là sự xác định về nhận thức của mọi người về người lãnh đạo, có tác dụng làm giảm những bất trắc liên quan đến hành vi tương lai được mong đợi của vị lãnh đạo đó". Người lãnh đạo có uy tín cao sẽ có mức độ tin cậy, tín nhiệm cao.
Do mỗi cá nhân hoạt động trong môi trường xã hội rộng rãi, giữ các vai trò khác nhau trong môi trường xã hội rộng rãi, giữ các vai trò khác nhau trong hệ thống xã hội, uy tín cá nhân được thể hiện thông qua những vai trò của người đó có trong hệ thống xã hội. Uy tín người lãnh đạo có thể được đánh giá từ nhiều góc cạnh khác nhau: Từ quan điểm của chính phủ, của cộng đồng, các đối tượng liên quan đê quyền lợi trong tổ chức (nhân viên, khách hàng, cổ đông .....). Trong nghiên cứu này, uy tín lãnh đạo được nghiên cứu từ quan điểm của nhân viên, thể hiện thông qua ba tiêu thức: được sự tín nhiệm của cấp dưới, được cấp dưới nể phục; và được cấp dưới thừa nhận là nhà lãnh đạo giỏi.
Mức độ thỏa mãn trong công việc của nhân viên. Vroom (Trích trong Price -1997) cho rằng sự thỏa mãn làm ức độ mà nhân viên có cảm nhận, định hướng tích cực đối với việc làm trong tổ chức. Sự thỏa mãn đối với công việc của nhân viên được định nghĩa là đo lường theo cả 2 khía cạnh: thỏa mãn nói chung đối với công việc và thỏa mãn theo các yếu tố thành phần của công việc
Gắn kết đối với tổ chức. Định nghĩa của Mowday et al (1979) được chấpn hận và được sử dụng nhiềun hất trong các nghiên cứu hiện nay, theo định nghĩa này gắn kết đối với tổ chức được xác định là sức mạnh của sự đồng nhất, của cá nhân với tổ chức, sự tham gia tích cực trong tổ chức và trung thành với tổ chức. Theo định nghĩa này, gắn kết đối vớit ổ chức bao gồm 3 thành phần:
- Sự đồng nhất :"có niềm tin mạnh mẽ và chấp nhận mục tiêu cùng các giá trị của tổ chức"
- Cố gắng: "tự nguyện cố gắng vì tổ chức"
- Trung thành:"ý định hoặc mong ước mạnh mẽ sẽ ở lại cùng tổ chức"
Uy tín lãnh đạo của CBNV cho thấy nếu lãnh đạo không có lỗi sống gương mẫu về đạo đức và nếu hiệu quả làm việc không tốt thì thật khó có thể có những CBNV trung thành, tận tâm hếtm ình vì doanh nghiệp. Kết quả phù hợp với các ngiên cứu trước đây cho rằng lãnh đạo có tương quan chặt tới mức độ thỏa mãn trong công việc và gắn kết đối với tổ chức của CBNV.
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến CBNV chưa trung thành gắn kết, chưa nỗ lực hết mình vì tổ chức là do nhiều lãnh đọa thiếug ương mẫu về đạo đức cá nhân, laàm iệc chưa hiệu quả. Vì vậy các tổ chức, doanh nghiệp cần cương quyết thay thế những lãnh đạo không còn uy tín đối với CBNV.
Kỷ yếu ngày nhân sự Việt Nam
PGS.TS Trần Kim Dung
TrườngcĐại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh
Để có nhân sự “độc”
Đội ngũ nhân lực tại chỗ năng động, giàu năng lực chính là “vũ khí” của doanh nghiệp (DN) trên thương trường. Vì vậy, nhà tuyển dụng (NTD) luôn ưu tiên ứng viên có thể làm được nhiều việc khác nhau.
Đây là chiêu thức giảm lượng, tăng chất nhân viên. Tuy nhiên, DN dễ rơi vào thế “tự mình trói mình” nếu hoạch định không bài bản, thiếu định hướng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực.
Để khắc phục tình trạng trên, công việc của NTD không chỉ là “đo đạc” nhân sự trên cơ sở đối chiếu nhu cầu công việc, khả năng đáp ứng vị trí làm việc mà còn phải phân tích tổng thể công việc, sở trường của từng nhân viên. Năng lực làm việc của mỗi người không bao giờ hoàn toàn trùng khớp với nhu cầu năng lực cho vị trí mà người đó đang đảm nhiệm. Người lao động sẽ bị đào thải nếu độ chênh lệch giữa năng lực bản thân và yêu cầu năng lực cho nhiệm vụ tại nhiệm sở mỗi ngày một cao. Song, việc này không có nghĩa là nhân viên này không làm tốt những công việc khác. Một nhân viên ít nói, cẩn thận, chu đáo sẽ không phát huy khả năng tích cực khi làm ở phòng kinh doanh. Trái lại, anh/chị nêu trên sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khi được phân bổ về văn phòng hay phòng nhân sự… Mặt khác, nhân sự sẽ dễ thích nghi, kế thừa khi đặc thù công việc mới có liên quan đến công việc cũ. Một nhân viên từ bộ phận lưu trữ hồ sơ, hợp đồng có thể làm việc tốt nếu được thuyên chuyển qua bộ phận hành chính - tổ chức. Nhưng nhân viên này khó có thể đảm nhận nhiệm vụ của phòng kinh doanh, truyền thông… Sự kế thừa giữa công việc cũ và mới còn giúp ích cho quá trình thăng tiến của người lao động.
Phân việc đúng khả năng, năng lực, mong muốn của nhân viên sẽ kết nối được sự phát triển nghề nghiệp của cá nhân với hoạt động phát triển chung của DN. Như vậy, NTD đã thành công khi sử dụng hiệu quả nguồn lực có sẵn, có cơ hội cho “ra lò” đội ngũ nhân sự “độc” - đa năng, có năng suất, phù hợp với đặc thù DN, hiếm hoi trên thị trường lao động.
Trương Chí Dũng (Giám đốc nghiên cứu và phát triển Công ty L&A)
0 nhận xét :
Đăng nhận xét